Là tác giả chính của 6 bài báo nghiên cứu khoa học và có một bằng sáng chế khi vừa tốt nghiệp bậc tiến sĩ, thành tích ấn tượng này đã giúp PGS.TS Tạ Thu Hằng có cơ hội phát triển tại trường đại học hàng đầu nước Úc
PGS.TS Tạ Thu Hằng hiện đang công tác tại Đại học Griffith (Úc). Ngoài giảng dạy, Tạ Thu Hằng còn chủ nhiệm phòng thí nghiệm (lab) chuyên nghiên cứu về ứng dụng của vật liệu nano trong việc điều trị, chẩn đoán các bệnh nguy hiểm như tim mạch. Tạ Thu Hằng cũng là thành viên lãnh đạo tương lai của Heart Foundation - một tổ chức y tế chuyên về sức khỏe tim mạch của Úc.
Sinh ra trong một gia đình có cả bố và mẹ đều làm nghề giáo, ngay từ khi còn nhỏ, chị Hằng đã có ý thức học hành rất nghiêm túc.
“Thời trẻ, nhà nghèo, ba của tôi từ một chàng trai ở vùng quê nghèo Quảng Ngãi quyết tâm lên Sài Gòn lập nghiệp. Ba có nhiều nghị lực và bản lĩnh nên đã tự xoay sở và sớm gây dựng được sự nghiệp. Đến năm 1998, ba trở thành Phó Hiệu trưởng Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục TP Hồ Chí Minh.
Còn mẹ tôi là giáo viên dạy tiếng Anh. Cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt, bà đều dạy cho hai anh em tôi từ những chữ cái đầu tiên. Ba mẹ tự xây dựng mọi thứ mà không cần đến bất kỳ sự hỗ trợ nào. Đến sau này, ba mẹ cũng đã dạy cho chúng tôi những điều như thế” - chị Hằng nhớ lại.
Tốt nghiệp với điểm số GPA cao nhất chuyên ngành Hóa thực phẩm của Trường Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh, Tạ Thu Hằng đã được giữ lại làm giảng viên của trường.
Cũng như nhiều nhân tài trẻ khác luôn mong muốn được đi du học để mở mang kiến thức, Tạ Thu Hằng quyết định sang Úc theo học thạc sĩ ngành Công nghệ sinh học tại trường Đại học Queensland. Học 1,5 năm tại đây, vì cảm thấy vẫn “chưa thỏa mãn”, chị lại tiếp tục nộp đơn xin học bổng học tiến sĩ ở Đại học Melbourne.
“3 năm học tiến sĩ, tôi nhận ra bản thân có mối quan tâm đặc biệt đến những ứng dụng của công nghệ nano vào ngành y tế”, chị Hằng nói.
Vào năm 2008, Tạ Thu Hằng hoàn thành việc học tiến sĩ với 6 bài báo khoa học là tác giả chính và 1 bằng sáng chế khoa học. Sau đó, Tạ Thu Hằng làm việc tại Viện Tim mạch & Tiểu đường và trường Đại học Queensland trước khi chuyển đến công tác mới tại Đại học Griffith với chức danh Phó Giáo sư.
Hơn 2 năm trải qua một số dự án, Tạ Thu Hằng xin được quỹ nghiên cứu của Hội đồng nghiên cứu Y tế và Sức khỏe Úc. Đây cũng là thời điểm nữ tiến sẽ quyết định thành lập lab, tập trung nghiên cứu về ứng dụng của công nghệ nano trong việc điều trị, chẩn đoán bệnh tim mạch.
Nhóm nghiên cứu của chị đã thiết kế và phát triển các cảm biến nano MRI thông minh, không chỉ phát hiện mà còn có thể cảm ứng và báo cáo giai đoạn hoặc tình hình phát triển của bệnh tim mạch, chẳng hạn như huyết khối.
Việc có thể phát hiện sớm và xác định chính xác đặc điểm của những căn bệnh đe dọa tính mạng như tim mạch và ung thư, theo PGS.TS Tạ Thu Hằng, là điều rất quan trọng.
“Biết huyết khối tồn tại trong mạch máu là mới hay đã hình thành từ lâu là điều rất quan trọng để bác sĩ quyết định phác đồ điều trị”.
Nỗ lực gây dựng lab
PGS Tạ Thu Hằng cho biết, các trường đại học ở Úc luôn khuyến khích và sẵn sàng cung cấp cả địa điểm để giảng viên xây dựng phòng lab, miễn là có thể xin được quỹ nghiên cứu và mua sắm được máy móc thiết bị.
Tuy nhiên, để xin được kinh phí hỗ trợ là khá khó khăn, xác suất nhận được chưa tới 10%.
PGS.TS Tạ Thu Hằng cho rằng, có một thực tế “phũ phàng” rằng, những trường xếp hạng càng cao, lab càng nổi tiếng hơn thì càng nhận được nhiều tiền hỗ trợ thực hiện dự án. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các lab mới thành lập, nếu dự án không dồi dào, nếu không xin được, sẽ “chết yểu” khi vừa mới “chào đời”.
Với nỗ lực không ngừng, lab của Tạ Thu Hằng may mắn khi nhận được dự án liên tục.
“Muốn xin được kinh phí thì phải hội tụ rất nhiều thứ. Không phải mình chỉ biết tìm tòi, đọc sách, vào lab làm thí nghiệm là sẽ xin được tài trợ. Còn rất nhiều việc mình cần phải làm, ví dụ như tham gia những hội nghị, hội thảo khoa học, tham gia giảng dạy, tham gia hoạt động trong những tổ chức khoa học, tham gia nhận xét các bài báo khoa học, tham gia Hội đồng biên tập các tờ tạp chí khoa học, …”.
Một khó khăn khác nữa là các nghiên cứu sinh thường tìm kiếm những giáo sư nổi tiếng nên những lab mới rất khó tuyển người.
“Thời gian đầu hoạt động, lab của tôi gần như không thể tìm được nghiên cứu sinh, chỉ tuyển được những sinh viên vừa tốt nghiệp hoặc người đang học thạc sĩ để thực hiện một vài dự án nhỏ kéo dài khoảng 3 – 6 tháng”.
Những sinh viên này thường không được trang bị nhiều kinh nghiệm. Vì thế, có thời điểm, Tạ Thu Hằng phải hướng dẫn tới 5 – 6 em làm thí nghiệm mỗi ngày. Thời gian có hạn cùng những khó khăn khi không có nhiều tiền để đầu tư hóa chất hay chạy máy móc, nữ Phó GS mô tả, thời điểm đó “phải rất chật vật để duy trì phòng lab”.
May mắn tới, qua vài dự án đã hoàn thành, tiếng lành vang xa, một số nghiên cứu sinh biết tới, cảm thấy hứng thú nên đã xin được đến làm việc tại lab của PGS Tạ Thu Hằng.
“Những nghiên cứu sinh này nói biết đến các dự án của tôi qua website trường và cảm thấy các hướng nghiên cứu này rất mới mẻ, thú vị nên muốn được tham gia. Kể từ đó, tôi bắt đầu để ý hơn đến việc xây dựng hình ảnh bằng việc giới thiệu những dự án mình đã làm lên website trường. Lâu dần, nhiều sinh viên cũng đã tìm tới lab”.
Hiện tại, phòng lab của vị phó giáo sư người Việt Nam đang có 8 nghiên cứu sinh học vị tiến sĩ và 1 nghiên cứu sinh sau tiến sĩ. Chị cũng đang tìm kiếm thêm nhà nghiên cứu cho một dự án mới vừa xin được tài trợ trong năm nay.
Cần liên tục có ý tưởng mới
Nghiên cứu khoa học, chị Tạ Thu Hằng nói, bản thân đã phải đánh đổi rất nhiều.
“Giai đoạn mới thành lập phòng lab cũng là thời điểm tôi vừa sinh con xong, rất khó khăn để bắt kịp lại với công việc, vì thế khi con mới được 10 tháng tuổi, tôi buộc phải đưa con đến nhà trẻ.
2 tháng ròng rã liên tục con quấy khóc, không chịu ăn, ngày nào đón con từ trường về mình cũng thấy xót xa. Lúc đó tôi từng nghĩ, hay là mình bỏ luôn, bỏ hết để ở nhà với con.
Phải mất một khoảng thời gian dài sống trong mặc cảm tội lỗi khi đặt lên bàn cân giữa con cái và sự nghiệp, tôi mới có thể trở về với tiến độ của mình”.
Hiện nay, khi con gái đã 7 tuổi, Tạ Thu Hằng vẫn bận rộn với công việc nghiên cứu và giảng dạy. Sức nghiên cứu của nữ PGS.TS cũng khá dồi dào khi có tới 1.800 trích dẫn khoa học.
PGS.TS Tạ Thu Hằng đã giành được một số giải thưởng danh giá và 3,9 triệu AUD (khoảng hơn 3 triệu USD) từ các quỹ tài trợ nghiên cứu. Đây là một con số không nhỏ đối với một nhà nghiên cứu khoa học nữ.
Tạ Thu Hằng cho rằng, để tìm kiếm được những dự án mới cần liên tục có những ý tưởng mới.
Để có ý tưởng mới, cần phải chăm chỉ nghiên cứu các bài báo khoa học để biết hiện nay trên thế giới, về một lĩnh vực nào đó người ta đã làm được gì rồi và còn những gì chưa làm được, từ đó mới nảy sinh ra ý tưởng. Đôi khi, những suy nghĩ ấy phải vượt ra khỏi khuôn khổ bình thường để sáng tạo.
Bên cạnh đó, khi thực hiện nghiên cứu, đôi khi kết quả không được như bản thân kỳ vọng. Trên con đường ấy, bản thân nhà khoa học phải có một cái đầu tỉnh táo để nhìn ra những cơ hội.
“Khi không nghĩ ra được những hướng đi mới, tôi lại đọc báo. Không chỉ đọc trong lĩnh vực mà mình đang nghiên cứu, tôi đọc cả những lĩnh vực khác. Một số dự án hay tôi đã tạo ra ý tưởng từ cách thức này, đó là tích hợp nhiều kiến thức liên ngành và từ đó tạo ra được một ý tưởng mới mẻ ứng dụng được trong lĩnh vực mình đang làm”, PGS Hằng chia sẻ.