Nhiều doanh nhân Việt Nam “lắc đầu” trước những lời hỏi mua cổ phần từ đối tác “ngoại”
Không bán, quyết tâm xây dựng thương hiệu Việt
Năm 2017, một tập đoàn lớn từ nước ngoài gần như đã thỏa thuận xong việc mua lại một thương hiệu Việt có tên là Sunhouse. Mức giá tập đoàn này đưa ra khi đó là 250 triệu USD. Tuy nhiên, ở những phút cuối cùng, ông chủ của Sunhouse đã hủy bỏ thỏa thuận này. Cũng may mắn là bên đối tác đặt mua có một “lỗi nhỏ” nên việc hủy bỏ việc mua bán không gây ra những rắc rối về mặt pháp lý.
Xuất thân từ một người làm thương mại vào thời điểm 1990-2000, ông Nguyễn Xuân Phú, Chủ tịch của Sunhouse, cảm thấy ngạc nhiên khi Việt Nam nhập khẩu mọi thứ, kể cả những thứ đơn giản nhất, không khó để tự sản xuất.
“Điều ấy thôi thúc tôi đầu tư vào các mặt hàng 'Made in Vietnam' và là lý do tôi lập nên nhà máy sản xuất", ông Phú kể.
Nhưng chỉ sản xuất thôi là chưa đủ. Sản phẩm phải có thương hiệu, bởi vì giá trị của thương hiệu lớn hơn nhiều những chi tiết được lắp ráp đơn thuần.
“Tại sao một chiếc sơ mi gắn thương hiệu nước ngoài lại bán gấp rưỡi thương hiệu của Việt Nam mà vẫn bán được và người mua lại không phải ai xa lạ mà chính là người Việt. Thời điểm đó, tôi cũng nhìn thấy một loạt thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam bán cho người nước ngoài. Cũng vì cái tôi của bản thân, cho nên tôi muốn giữ lại thương hiệu Sunhouse”, chủ tịch Nguyễn Xuân Phú bộc bạch lý do quyết tâm giữ lại “đứa con tinh thần” của mình.
Bà Trần Uyên Phương, đại diện của Tân Hiệp Phát, từng chia sẻ công khai câu chuyện từ chối 2,5 tỷ USD từ một doanh nghiệp nước ngoài tại một hội thảo về thương hiệu Việt.
Câu chuyện này xảy ra từ cuối năm 2012, khi tập đoàn Mỹ đến gõ cửa và đưa ra một số tiền rất lớn để mua cổ phần của Tân Hiệp Phát. Mất tới 1 năm trời đàm phán, chia sẻ chủ trương phát triển công ty, cuối cùng, bên phía Tân Hiệp Phát đã từ chối lời mời hợp tác trị giá hơn 2,5 tỷ USD từ “ông lớn” này.
Bà Trần Uyên Phương chia sẻ rằng: "Đối tác yêu cầu Tân Hiệp Phát chỉ được bán sản phẩm tại Việt Nam, Lào và Campchia và không được tung ra các sản phẩm mới nữa. Chúng tôi thì lại mong muốn mang những sản phẩm của châu Á ra với thế giới, đó là lý do chúng tôi tiếp tục đầu tư vào những nhà máy mới và từ chối lời đề nghị vào năm 2012".
Thực tế là trong suốt bao năm qua, vì nhiều lý dó, các doanh nhân Việt Nam đã bán đi doanh nghiệp cho đối tác nước ngoài. Đọc nhiều cái tên nổi tiếng như X-men, P/S, Kinh Đô, Diana, Nguyễn Kim,... nhiều người không khỏi nuối tiếc khi các nhà sáng lập, tạo ra các thương hiệu này là người Việt Nam. Trải qua các đợt liên doanh, liên kết, nhượng lại cổ phần, bây giờ đây những thương hiệu kể trên đã thuộc quyền sở hữu của các công ty nước ngoài như Ấn Độ, Thái Lan, Mỹ, Nhật Bản.
Cũng không ít người lại cho rằng, nếu không thuộc sở hữu của các công ty ngoại, nhiều thương hiệu trong số đó cũng rất khó để có thể nổi tiếng như hiện nay bởi những hạn chế cố hữu của các doanh nghiệp Việt. Song, cũng không ít nhà đầu tư nước ngoài mua lại doanh nghiệp Việt chỉ nhằm mục đích làm giảm bớt đối thủ cạnh tranh, để họ chiếm thế độc tôn trên thị trường nội địa.
Chờ đợi sự vươn lên mạnh mẽ từ các doanh nghiệp “nội”
Nhìn nhận lại quá trình phát triển, dễ dàng nhận thấy những thương hiệu Việt vươn ra được nước ngoài vẫn còn khá hạn chế. Cho dù các mặt hàng xuất khẩu “made in Vietnam” phủ sóng khắp 5 châu, kể cả ở những thị trường khó tính như châu Âu, Mỹ, nhưng hầu hết hàng Việt Nam vẫn là “gia công, lắp ráp”. Tuy nhiên, 10 năm gần đây, Việt Nam đã có được những doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh trong nhiều lĩnh vực như bất động sản, hàng không, thực phẩm, bán lẻ,... đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Cùng với đó, việc mua - bán doanh nghiệp không chỉ còn là “sân chơi” độc tôn của các nhà đầu tư ngoại nữa. Nhiều doanh nghiệp vẫn phải bán lại cho đối tác khác, nhưng điều khác biệt là các doanh nghiệp “nội” là bên mua lại, để tạo thế cân bằng hơn trong cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp “ngoại” trong nhiều lĩnh vực cốt yếu.
Theo báo cáo thống kê của Nhóm Nghiên cứu Diễn đàn M&A Việt Nam (MAF Research) và của Viện nghiên cứu Đầu tư và Mua bán sáp nhập (CMAC Institute), những thương vụ sáp nhập và mua lại nổi bật nhất trong giai đoạn 2019-2020 liên quan đến các tập đoàn tư nhân lớn của Việt Nam. Trong đó điển hình là Masan, Gelex, Vinamilk, Thaco. Masan Consumer mua lại VinCommerce & VinEco, Vinamilk mua công ty tổng quản của Sữa Mộc Châu; Thaco tham gia tái cấu trúc CTCP Nông nghiệp quốc tế Hoàng Anh Gia Lai.
Việc phải bán doanh nghiệp đôi khi lại là quyết định khó khăn với nhiều ông chủ Việt, nhưng đó chính là sự khắc nghiệt của thương trường, của nền kinh tế thị trường. Điều quan trọng là để xây dựng được đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam hùng mạnh, vững vàng trong thị trường trong nước, nổi tiếng ở thị trường toàn cầu, cần tạo ra một môi trường kinh doanh để doanh nghiệp Việt phát triển, để nếu một doanh nghiệp này có bán đi, thì những doanh nghiệp nội địa khác đủ sức mua lại, thay vì nhượng lại cho các công ty nước ngoài. Bởi xét cho cùng, việc gây dựng được đội ngũ doanh nghiệp Việt đủ lớn mạnh mới là nền tảng cho sự phát triển bền vững về sau này.
Câu chuyện phía sau việc Vingroup quyết định trao toàn bộ việc điều hành VinMart, chuỗi cửa hàng VinMart+ và Công ty VinEco sang Tập đoàn Masan là điều đáng để suy ngẫm. Khi chuyển giao việc điều hành các doanh nghiệp kể trên, Vingroup quyết định hợp lực với doanh nghiệp nội chứ không hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài để cân bằng thị trường bán lẻ trong nước.
Đến thời điểm này, nhiều người vẫn không khỏi nuối tiếc khi đề cập đến câu chuyện bia Sài Gòn rơi vào tay người Thái, cho dù mức giá bán vào thời điểm đó đến nay vẫn được xem là “được giá”. Để không còn phải ngậm ngùi nhìn cảnh các thương hiệu Việt Nam bị nước ngoài thâu tóm, hơn lúc nào hết cần xây dựng những chiến lược cụ thể để tăng cường sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt.